Tin Tổng Hợp

Chèo là gì? Tìm hiểu về chèo sân đình – LyTuong.net

1. về cái tên “chèo”

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian truyền thống lâu đời và mang tính dân tộc nhất của dân tộc Việt Nam. tại sao nó được gọi là “hát ru”? các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian sưu tầm và đúc kết nhiều cách hiểu khác nhau về tên gọi này.

Ý kiến ​​thứ nhất cho rằng từ “chèo” là phiên âm của từ “tồ”, mang ý nghĩa hài hước và mỉa mai. chèo là một loại hình diễn xướng dân gian đầy tính hài hước và châm biếm nên còn có tên là chèo. theo thời gian, việc đọc này trôi đi, trại đọc đang chèo kéo. nên ý kiến ​​này muốn dựa vào nội dung thể loại để giải thích tên gọi của chèo.

Bạn đang xem: Chiếu chèo sân đình là gì

Ý kiến ​​thứ hai cho rằng chèo âm đọc từ chữ “triều”, là loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ cung đình. Ý tưởng bắt đầu từ giả thuyết nguồn gốc để giải thích tên gọi này đã ít nhiều phủ nhận tính dân gian của loại hình nghệ thuật này mà muốn nhấn mạnh yếu tố hiện thực (?).

ý kiến ​​thứ ba cho rằng “chèo” là một danh từ thuần Việt, danh từ này gắn liền với phong trào chèo trong đời sống và tín ngưỡng, phong tục tập quán lâu đời của người Việt. Theo hướng đó, dựa trên các sử liệu dân tộc học, các nhà nghiên cứu xác định rằng từ xa xưa người Việt có tục hát đưa linh hồn người chết về cõi âm (còn gọi là nơi chín suối, suối vàng. ).). Có nơi vẫn có vở Chèo lấy Linh (ví dụ Chèo lấy Linh ở Phan Thiết). vở chèo này được biểu diễn bằng cách chở linh hồn người quá cố về cõi âm bằng thuyền và hát “bả trạo” (hay “bả trạo” có nghĩa là cầm mái chèo, cầm mái chèo). trong chèo cổ có câu ca dao (nghĩa đen là kéo đò, kéo xe). bài hát này còn được dùng trong các bài hát đám ma và hát chay trong đám tang (tiễn đưa linh hồn người chết về cõi âm hoặc tìm hồn người chết ở cõi âm) (với Hoàng đạo tiên – sách giáo khoa) cĐsp- note al footnote 252).

2. về nguồn gốc:

Có nhiều ý kiến ​​khác nhau khi nói về nguồn gốc của chèo. Chúng tôi đã mượn những đóng góp nghiên cứu sách giáo khoa của Đại học Quốc gia Hà Nội để trình bày vấn đề này. Theo các thư tịch cổ, hát chèo đã được nghiên cứu chi tiết trong sách Hy phường phả lục vinh danh (thế kỷ 15). Nhưng rất tiếc, cuốn sách quý ấy của đêm Noel và một trong những thủ lĩnh của Hội Tao Đàn đã không còn được lưu giữ cho đến ngày nay. en dai viet history of the full book by ngo si lien (15) va kien van tieu luc de le quy don (15)

xviii) đều ghi rằng vào đời Lý nhân tông (1075) trong cuộc kháng chiến chống quân ca, bộ đội ta đã bắt được một ca quân nổi tiếng (ly tấn đào). chính người này đã dạy cho cán bộ chúng tôi kiểu cấm khẩu hihi và sau đó nó lan rộng ra và dần trở thành điệu chèo. Tương tự, trước đây, chúng ta cũng từng nghe một bài hát của nước Mông Cổ có tên là ly nguyên cát dạy quân sĩ của chúng ta làm thơ và ngâm thơ. Bài ký của Phạm Đình Hổ của Vũ Trung (thế kỷ 17) ghi rằng loại văn này được hát trong đám tang của Trần Nhân Tông. do đó, theo các nhà sử học nói trên, hát chèo có nguồn gốc từ phương Bắc và được du nhập vào nước ta.

vào đầu thế kỷ 20, trên tạp chí đàn ông phong số. 76 dam phuong, ca si tìm ra nguồn gốc của sân khấu dân gian chúng ta ở thành phố.

Vào những năm 1950 của thế kỷ này, các tác giả cuốn “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam” (Tập 1) do Nhà xuất bản Địa lý lịch sử xuất bản cũng đã dựa trên quan điểm trước đó cho rằng tuồng có nguồn gốc từ Trung Quốc, chèo xuất phát từ tuồng.

ông Lệ Chi kết luận rằng lý giải nguồn gốc của hát Chèo là do một dân tộc khác du nhập vào Việt Nam là không thuyết phục. từ đó, ông đưa ra một giả thuyết đáng tin cậy khác về nguồn gốc của chèo.

trong “chèo và tuồng” của Hoàng ngọc bội và huynh ly (nhà xuất bản văn hóa 1958) và đặc biệt là trong các chuyên khảo của các nhà nghiên cứu sân khấu đại chúng như hoàng kiều, trần thế ngữ, hà văn cau, các tác giả nhận xét rằng chèo – a el arte Nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo phải có nguồn gốc từ các hình thức múa, hát nguyên thủy cổ xưa của dân tộc, có thể có từ thời xa xưa. Từ lối diễn xướng và ứng tác, Chèo được hình thành vào khoảng thế kỷ cuối cùng của sự sống trên trái đất. trước đó chỉ có những điệu múa mộc mạc giản dị kể lại quá trình săn bắt, làm rẫy kèm theo trống và chiêng hoặc các pháp sư kể lại công đức thần thánh hoặc một giai đoạn lịch sử của bộ tộc trong quá khứ. rồi đến tận thế, khi yêu cầu và nhu cầu nghệ thuật của người nông dân ngày càng cao, họ tự tổ chức thành nhóm, tổ, phòng để diễn những câu chuyện phức tạp, có nhiều nhân vật, hát nhiều điệu hơn. và theo các nhà nghiên cứu, những người hát rong này có lẽ (?) là tiền thân của việc xếp hàng chèo quy mô lớn hơn và có tổ chức hơn vào cuối thế kỷ XV. Có thể thấy rõ tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong lời giải thích trên, nhưng tiếc là các tác giả chưa đưa ra được cơ sở khoa học thuyết phục để chứng minh điều đó.

Trong nỗ lực cung cấp bằng chứng lịch sử và khảo cổ học thuyết phục hơn, Mr. Trần quốc ngữ và định xuân lam (tạp chí văn nghệ số 4 – 1966) cho rằng mốc ra đời của tuồng chèo phải sớm hơn nhiều so với hai triều đại, và trong triều đại vật lý, hai bộ môn nghệ thuật đó không chỉ đạt đến giai đoạn phát triển. cũng trở thành một hình thức khá phổ biến trong đời sống tinh thần dân tộc. Các tác giả cũng cho rằng, vào thời Lý, trong nghệ thuật sân khấu Việt Nam có sự phân biệt rạch ròi giữa vai đào kép và vai hề, trong cung đình đã có khá nhiều nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp. Chèo xuất hiện trước tuồng không bao lâu, hai người đảm nhiệm việc triều đình và trấn yểm. khi chế độ phong kiến ​​phát triển cũng là lúc ông mâu thuẫn với nhà chèo chống và quyết liệt đuổi ông ra khỏi cung.

sau khi đưa ra nhiều ý kiến ​​khác nhau (hầu hết đều là giả thuyết để mở chủ đề để thảo luận thêm), mr. le chi người đã kết luận rằng chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu bình dân. dân tộc vừa mang đặc điểm phổ biến vừa mang tính chuyên nghiệp của các hình thức sơ khai của dân tộc ta. trong quá trình hình thành và phát triển, cũng như các loại hình văn hóa khác, ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng và thích ứng với các yếu tố ngoại lai của các loại hình nghệ thuật khác. nó tồn tại trước thời của trái đất (để bác bỏ ý kiến ​​cho rằng thế giới vật chất – và sau đó là cuộc sống trần gian được dạy bởi những ca sĩ bị bắt từ các cấp bậc ngoại quốc) và cho đến khi chết được sống lại. theo thời gian, nó đã phát triển rộng rãi hơn, trở thành một trong những vũ khí sắc bén để tấn công các tệ nạn trong xã hội (trong nhân dân và trong giai cấp thống trị).

Nhưng dù xét theo quan điểm nào, theo chúng tôi, mối quan hệ chặt chẽ giữa hát chèo với dân ca, nhạc dân tộc với nền tảng của múa và sinh hoạt dân gian cũng là một gợi ý về nguồn gốc Việt Nam của loại hình nghệ thuật truyền thống này.

3. về quá trình phát triển:

Không cần đặt vấn đề về nguồn gốc, căn cứ vào các tài liệu lịch sử, văn hóa, có thể hình dung quá trình phát triển của chèo như sau. Trước hết, thời ngo, đình, lê chỉ có những điệu múa, điệu múa đơn giản, dễ đi kèm với cồng chiêng, trống, người hát có khi là thầy cúng, nơi hát còn gắn với các hình thức nghi lễ.

trong ca dao, từ những hình thức hát nói ngẫu hứng với những động tác đơn giản kể lại một câu chuyện cổ tích, đến những hình thức diễn xướng có sự kết hợp giữa âm nhạc và vũ đạo ở mức độ cao hơn (huyện giao duyên). trung; kien van tieu luc – le quy don)

Âm nhạc được phát triển, lưu truyền trong các câu chuyện dân gian theo phương thức truyền khẩu có thể có những hình thức nói điển hình (như ngâm, hò, ví, giặm …) có đệm nhạc hoặc đệm hát và nói của một nhóm người tự phát. cơ sở (?).

từ nóc nhà xuống đáy hồ, đòi hỏi nghệ thuật của người nông dân ngày càng cao, nhưng đôi khác không còn đáp ứng, một đôi làn điệu không đủ, đã khiến họ phải tổ chức lại thành từng tốp, từng tốp và phòng để thực hiện các tác phẩm phức tạp, với nhiều nhân vật hơn và nhiều giai điệu hơn. nó có lẽ là tiền thân của việc chèo thuyền có tổ chức hơn vào cuối thế kỷ mười lăm. gia đình lưu ý đến “thuần phong mỹ tục” và cấm hát chèo, ăn uống trong dịp trung thu. chèo trở về với văn hóa dân gian nên có điều kiện ăn sâu vào văn hóa dân gian, phát triển và trau dồi thêm nghệ thuật dân gian.

Ở nông thôn, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 – 19, phong trào hát hò, đặc biệt là hát Chèo đã phát triển mạnh. có những xóm chèo nổi lên đăng ký hát dài hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi sự sắp xếp các làn điệu phải hợp lý, nhuần nhuyễn, các động tác múa, hát phải tinh tế. các nhân vật không quá đơn giản, nhưng mạnh dạn và tháo vát. Vào thời điểm này, có những vở tuồng lớn sau này trở thành vở chèo kinh điển của Việt Nam như quan âm thi kinh, đoản viên, binh đao, kim tuyến,… và chèo đã đi sâu vào đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. / p>Vào thế kỷ 19, chèo chịu ảnh hưởng và có phần pha trộn với tuồng, khai thác những câu chuyện mà tuồng thường sử dụng (tiền Hán, hậu Hán, hán thế tranh, v.v.) với vai trò của vua chúa và chiến đấu bằng binh khí, ngôn ngữ. trộn với kanji…

Đầu thế kỷ 20, chèo hiện đại và cải lương ra đời để đáp ứng thị hiếu của một bộ phận giai cấp tư sản thành thị, mặc dù truyện cổ vẫn là truyện cổ, truyện du mục …

Sau cách mạng tháng Tám, đã có lúc chèo thay hình đổi dạng khi được hiện đại hóa một cách thô bạo, thể hiện sự ấu trĩ trong nghệ thuật và chính trị. cho đến gần đây, trong cội nguồn, chèo trở lại như một loại hình sân khấu đại chúng, đậm đà bản sắc.

Dựa trên quá trình hình thành và phát triển, chèo dân gian truyền thống với hình thức diễn xướng sơ khai còn được gọi là chèo đình. chèo đình được biểu diễn trong các bữa tiệc, lễ hội ở nông thôn. Gọi là đình làng chèo vì sân khấu là một cánh đồng rộng ở giữa sân đình làng, cạnh cổng làng, cổng chùa, góc chợ, hoặc một cánh đồng lớn giữa làng. do đó, nó sử dụng bầu trời cao xung quanh, cây cối và các bức tường làm phông nền trang trí. ở phía sau sân khấu, người biểu diễn dùng chiếu trải trên sàn làm sân khấu (phải có chữ “chiếu chèo”). các phụ kiện quần áo từ giấy được đựng trong các hộp gỗ khác nhau. các hộp gỗ đó cũng có tác dụng hành vận (khi là núi cao, khi là ngai vàng, v.v.). các diễn viên là những người nông dân yêu nghệ thuật và có năng khiếu múa hát. cày ruộng sớm chiều, vào mùa du lịch, chúng tụ tập thành các “phòng” theo các ông trùm, nhà thơ đi từ phố này sang thị trấn khác để phục vụ nhân dân. các nghệ sĩ sáng tác các tác phẩm mới, cải tiến các tác phẩm cũ và giai điệu làm cho chèo trở nên phong phú hơn bao giờ hết.

Theo các nhà nghiên cứu, đến ngày nay còn lại hơn 70 tác phẩm chèo cổ, hầu hết ra đời trong khuôn viên sân đình thời phong kiến ​​(chủ yếu từ thế kỷ 18-19)

Xem thêm: Cách đọc phân số trong tiếng Anh

gọi chèo đình làng để phân biệt với chèo văn minh (đầu thế kỷ 20) phát triển ở thành thị với sân khấu ba gian, trang trí rèm, có cảnh trí, áo bào và trang phục đẹp hơn.

Trong tài liệu này, chúng tôi chỉ nói về nội dung và đặc điểm nghệ thuật của chèo ở đình làng.

4. đặc điểm chung của chèo cộng đồng:

a. chèo – một loại hình sân khấu phổ biến:

chèo là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa trò chơi, lời ca và các động tác múa. trò chơi đóng vai là một kịch bản văn học, là nội dung được tường thuật thông qua sự thể hiện của diễn viên. chúng ta có những tác phẩm như tam thế, thập lý đào hoa, tạp chí hoa, nguyệt lữ hành lễ… hát chèo là khi cảm hứng trữ tình lên đến đỉnh điểm, các nhân vật bộc lộ tâm tình, trao đổi tình cảm với nhau. hát chèo vừa là ngôn ngữ viết vừa là ngôn ngữ của nhân vật. Hát chèo sử dụng đa dạng và phong phú các làn điệu hát ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ (kết hợp với các làn điệu âm nhạc mang tính chất tín ngưỡng và một số làn điệu du nhập từ các vùng miền khác). ta có thể kể tên một số làn điệu như tiếng gà trống rừng, cơn say xưa, tiếng hát, tiếng hắt hơi, con đường khúc, điệu hò, tiếng phù phiếm, những làn điệu hạnh phúc, hát ru cùng với hát chèo là điệu múa của chèo. Nhìn chung, múa chèo vẫn đơn giản,

một số bước nhảy mô phỏng chuyển động lao động. Người múa chèo tập trung nhiều vào các chuyển động mềm mại và uyển chuyển của cánh tay, cổ tay và ngón tay (múa “xù vân trong” kéo dài đến 19 phút), sử dụng một số phụ kiện như bông, hoa, cành, que, tia lửa. trong đó phổ biến nhất là

sử dụng quạt. thực sự là lời bài hát, bước nhảy … nói chung là yếu tố âm nhạc

có vai trò vô cùng quan trọng và tạo nên bản sắc dân tộc của chèo.

b. chèo: một hình thức kể chuyện độc đáo kết hợp giữa diễn xướng và ứng tác: chèo kể một câu chuyện trên sân khấu mà nhiều người đã biết. diễn viên là người kể câu chuyện, mô tả thời gian và không gian, đóng vai trò của nhân vật trong câu chuyện.

Khi biểu diễn, diễn viên tương tác trực tiếp với người xem thông qua âm thanh của “xúc xắc”. từ “cho” bao gồm các câu hỏi, các từ hỗ trợ và các từ bên dưới. đây là một hình thức chèo độc đáo, giúp diễn giải nội dung trò chơi, dẫn dắt, khơi gợi suy nghĩ cho người xem và cũng có thể bình luận về nhân vật, sự việc … dưới đây là trích đoạn với giọng “đế” trong vở Thị kính. âm:

vì lý do tương tự, các nghệ sĩ tài năng, từ lịch sử sẵn có và ca từ bài hát của các tác giả trữ tình cộng với “cho” mà người xem đôi khi nghe thấy, đã ứng biến trực tiếp trên màn hình. sân khấu hóa khiến vở diễn trở nên sinh động và hấp dẫn hơn (giống như loại hình múa rối nước được trình diễn, tính ngẫu hứng trong chèo vừa là điểm cộng vừa là điểm trừ).

c. chèo – một loại hình sân khấu hài:

Mặc dù câu chuyện nói về những đau khổ và những số phận bất hạnh, nhưng cái kết có hậu và tiếng cười lạc quan của Chèo luôn tạo nên nhiệt huyết tuổi trẻ. vì vậy vai hề không thể thiếu trong chèo. vai hề trong chèo (mà chúng tôi sẽ giới thiệu ở phần sau) là một sự sáng tạo độc đáo với những hình thù ngộ nghĩnh, những chiêu trò vui nhộn luôn phong phú, đa dạng và linh hoạt (từ tên gọi, trang điểm đến hoạt tiết, chữ viết, ngôn ngữ).

d. chèo – một hình thức sân khấu biểu tượng và thông thường.

do đặc thù của diễn xướng, chèo đã phát huy tối đa tính ước lệ và tính tượng trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật (đạo cụ, ca từ, hóa trang, động tác …). Chẳng hạn, chiếc quạt trên mái chèo là một giá đỡ giàu tính ước lệ, biểu tượng, ngoài chức năng quạt gió, quạt còn là nơi để thơ; có khi là roi, có khi là lông. nó giúp diễn viên tung hứng sáng tạo vô cùng linh hoạt. hoặc khi các diễn viên chèo thuyền trên sân khấu, nghĩa là khán giả ngầm hiểu rằng họ đã đi từ nơi này đến nơi khác, có khi quãng đường rất dài (chẳng hạn như từ chiến trường về quê). Cách tiếp cận biểu tượng cũng được thể hiện trong ngôn ngữ, khi diễn viên nói: “Người cha đã chăm sóc con từ lâu”, so với màn hình trước đó, người xem sẽ hiểu ngay rằng đã ba năm trôi qua.

5. giá trị nội dung chèo đình làng:

giá trị nổi bật của loại hình nghệ thuật chèo là tính hiện thực sắc sảo. Thông qua nội dung cốt truyện, các vở chèo phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội và phê phán những thế lực đen tối, những đại diện của thói hư tật xấu trong xã hội. đó là hình ảnh đáng lên án của lũ vua chúa, sâu mọt, dân chúng; của bọn quan lại thối nát, bọn giáo hư trong xã hội phong kiến ​​đầy rẫy những hủ tục xấu xa (điển hình là trò chơi nghêu ngao sò, quan âm có chướng ngại vật …)

quýt thậm chí không tốt

vua chèo thuyền không khác gì một chú hề.

nhân vật của người đứng đầu xã (mắt quan âm) đã được khai báo như sau: như tôi, đây là tên của người đứng đầu xã

<3

xoay chúng xuống để cho chúng ăn cũng khá …

Ngoài ra, nội dung vở chèo còn chứa đựng những hình ảnh chân thực, xúc động về cuộc sống của những con người cùng cực trong xã hội đầy rẫy những bất công (nỗi khổ của những bà mẹ và trẻ em địa phương – chèo trường viên). , sự bất công của thị kính – thị kính guan âm) để làm rõ mâu thuẫn giai cấp gay gắt giữa bọn thống trị tàn bạo, địa chủ ác ôn và quần chúng lao khổ, nhất là nông dân.

nhưng phơi bày sự thối nát của xã hội và phơi bày những thân phận bất hạnh, khốn khó bị xã hội xô đẩy, lên tiếng bảo vệ quyền sống, bảo vệ phẩm chất, nhân phẩm của con người – đặc biệt là phụ nữ (người phụ nữ). các vai trưởng thành “: thị kính là những vai chính tiêu biểu). Quan điểm nhân đạo cao cả của loại hình nghệ thuật dân gian này còn được hòa vào dòng chảy nhân văn của văn học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam thế kỷ 18 – 19 nói chung.

cộng với hình ảnh người chinh phụ đợi chồng, người cung nữ sống côi cút, lạnh lẽo và mệt mỏi, người phụ nữ Việt kiều chìm nổi … đã làm giàu thêm giá trị nhân đạo bằng những đóng góp đáng kể. đó là cái nhìn đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh của những người phụ nữ; thái độ trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​và lòng căm phẫn mãnh liệt trước những thế lực đen tối chà đạp lên thân phận khốn khổ của họ – những nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến ​​- giai đoạn xuống dốc. đó là số phận của cô gái mắt hí:

“Khi đã là vợ chồng, tôi đã nghi ngờ mình mất trinh khi giả trai rồi để một cô gái đổ tội”.

đó là vẻ đẹp của những con người trong hoàn cảnh chiến tranh

có bao nhiêu người nuôi dạy mẹ chồng trên thế giới. ”

<3

Không chỉ vậy, nội dung nhân đạo còn được thể hiện ở hình thức những nhân vật có vai trò “tà đạo” như xẩm (chơi kim châm), thị sắc (quan âm với thị kính) dám vượt mặt dư luận. , những nghi lễ phong kiến ​​hướng tới những khát vọng chính đáng về tình yêu và hạnh phúc.

6. giá trị nghệ thuật của chèo ở đình làng:

Xem thêm: Tổng quan các dòng laptop Dell. Nên mua loại nào phù hợp với nhu cầu?

chèo là một loại hình nghệ thuật tổng hợp của nghệ thuật quần chúng. Bạn phải được nghe các bài hát bằng tai để hiểu nội dung của vở, và xem các động tác, cử chỉ và nghệ thuật trình diễn của các nhân vật để hiểu hết những đặc điểm độc đáo của Chèo. ở đây, chúng tôi chỉ xét đến yếu tố nghệ thuật trong kịch bản văn học của chèo.

* về kết cấu:

chèo thường trình bày các sự kiện của câu chuyện theo trình tự thời gian. và trong trình tự chung của phân cảnh trước sau, các tác giả thường chọn những đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời của nhân vật để tập trung khai thác.

Vì chèo là một thể loại tự sự sân khấu (ở đó có sự tổng hợp của các yếu tố như bài – nhịp – bộ – diễn) nên cấu trúc của tác phẩm chèo phụ thuộc ít nhiều vào một thể loại khác nhau (hay nói cách khác là có liên quan mật thiết đến cấu trúc của một tác phẩm tự sự mà câu chuyện dựa trên đó). cốt truyện của chèo thường dựa trên những câu chuyện có sẵn trong truyện dân gian và về cơ bản vẫn giữ nguyên những tình tiết giống như trong truyện (học phần này, chúng ta có thể tham khảo những đặc điểm cấu tạo của truyện dân gian).

Giống như những câu chuyện cổ tích, chèo sẽ kể lại cuộc đời của một nhân vật nhất định theo cách đặc trưng của nó, vì vậy mỗi vở chèo thường có một nhân vật trung tâm. nhân vật này thường có mặt trong suốt câu chuyện và hướng dẫn cấu trúc của cốt truyện.

* về nhân vật:

Nhìn chung, nhân vật của Chèo thể hiện bản lĩnh hơn qua diễn xuất. tính cách đó thường được thể hiện qua những hành động phóng đại và quy ước (điều này sẽ bị hạn chế khi chúng ta gặp nhân vật qua kịch bản văn học). có một đặc điểm rất thú vị là khi nhân vật chèo (thường là vai chính – vai phụ) lên sân khấu, anh ta thường tự giới thiệu và tạo dựng tên tuổi. họ nói tên của họ – họ, nghề nghiệp, nguyên quán, dòng họ, lịch sử gia đình … đôi khi họ bao gồm một hoặc một số đặc điểm tính cách của họ. ví dụ, khi ký tự cho màu mắt (mắt quan âm) xuất hiện, ký tự của ký tự đó là:

Tôi thể hiện màu sắc, con gái của người giàu

tiền và gạo, tôi đi chùa cúng hoa quả (chị có mấy chị?)

gia đình tôi thật kỳ lạ … nó có chín chị em gái (có ai giống bạn không?)

Tôi là người trưởng thành nhất!

… nhưng tôi có tiếng là tán tỉnh.

con tàu đưa lệnh cấm giá đến ngôi đền mười ba.

hoặc phần tự giới thiệu nhân vật (kim nham): Mình không giấu tên là xuyu

gả vào một gia đình khó khăn, gian khổ và ham học hỏi…

các nhân vật trong chèo thường được chia thành hai tuyến: chín và lệch vai (nếu nhân vật là nữ thì gọi là chín và lệch vai). vai chín là vai thể hiện những tính cách tích cực thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người (như nhãn, nhìn, tha thiết…) còn vai ngược lại là tính cách tiêu cực, thường thuộc tầng lớp thống trị, thống trị hoặc những người có thói hư tật xấu trong xã hội. (ví dụ: ly thông, thị huệ).

Tuy nhiên, tôi sẽ thiếu sót khi không kể đến một vai không thể thiếu trong các vở chèo, đó là vai hề. Vai hề là nguồn cười quan trọng và chủ yếu của chèo, mặc dù trong chèo dân gian truyền thống ít có hài kịch thực tế mà thường chỉ có hài kịch, các lớp hài và các yếu tố hài xen kẽ (đôi khi nằm ở hậu cảnh). nội dung của truyện hoặc xa truyện). tuy nhiên, tiếng cười do nhân vật chèo phát ra cũng có nội dung và ý nghĩa tương tự như tiếng cười của các truyện cười, các bài hát trào phúng bình dân. vai hề trong chèo cũng có nhiều hình thức phân chia. Đôi khi người ta dựa vào nội dung phản ánh để chia thành hai loại hề tích cực và hề tiêu cực. Đôi khi người ta dựa vào nghệ thuật thể hiện (khi diễn, hề mặc đạo cụ gì) để phân thành ba loại khác như: hề dính, hề mồi, hề đồng. có người giới thiệu một dạng vai hề khác đó là vai hề cá tính. Dưới đây là tổng quan ngắn gọn về các vai trò được đề cập ở trên.

Chú hề năng động (hay còn gọi là chú hề quần đùi) thuộc tầng lớp thấp trong xã hội (đầy tớ, cận vệ, anh em, tiểu đồng …). anh chàng này đại diện cho những người lên tiếng chống lại giai cấp thống trị, phê phán những thói hư tật xấu bằng những lời lẽ và cách diễn đạt dí dỏm.

Những chú hề tiêu cực ít nhiều đại diện cho các tầng lớp thượng lưu (như quan lại, thầy mo, thầy bói, thầy phù thủy …). anh chàng này thường xuyên để lộ bản thân hoặc là phương tiện cho một chú hề hoạt động.

nhân vật hề không được đặt tên là hề trong trò chơi chèo, nhưng nó cũng có một chức năng vui nhộn. nhân vật hề vừa là phương tiện vừa là đối tượng của những tiếng cười phê phán mà họ khơi ra (ông già say rượu, ông già mốc meo, bà mẹ tẩm quất, người pha chế, người quản lý …)

Chú hề với cây gậy (cây gậy trong tay) thường là người hầu đi theo chủ trên một quãng đường dài. chiếc gậy thường dùng để chở hành lý cho chủ nhân. nhưng không chỉ vậy, chiếc gậy còn được dùng như một phụ kiện tượng trưng thông thường để chú hề biểu diễn (có khi dùng để múa, có khi là gậy, gậy để tự vệ và đánh chó), đuổi trộm, có khi cầm bút làm thơ…). đôi khi người ta còn gọi đây là chú hề vì hay theo các cô chú, thầy cô đi lễ hội, du xuân, đi học, đi thi …

mồi câu (có “mồi” cầm trong tay bằng giẻ thấm dầu hoặc nến để thắp) là quân tử, kẻ hầu người hạ trong phủ, trong phủ, trong nhà. bạn không thường sử dụng bật lửa để thắp sáng hoặc sử dụng như vậy

(nguồn tham khảo: trần tung chinh, sách giáo khoa văn học dân gian Việt Nam)

Xem thêm: Toàn tập về bảo hiểm trong Genshin Impact: Nó là gì và làm sao để có? | Sforum

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *