Kể lại truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất (2 mẫu)
Đề bài: Kể lại truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.
Bài giảng Vợ nhặt – Cô Thúy Nhàn (giáo viên )
Kể lại truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân – văn mẫu 1
Chú Trang sống trong xóm. Nhà nghèo, cha mất, mẹ già. Thân hình to lớn, bụ bẫm, khuôn mặt thô kệch, hai con mắt nhỏ… Chưa lập gia đình, ông làm nghề kéo xe bò thuê.
Cái đói đến với xóm dân cư này từ đó. Người chết như ngả rạ. Từng nhóm người ôm nhau chạy như ma đuổi. Xác người nằm la liệt bên đường. Không khí sặc mùi xác chết. Tiếng quạ trên cây gạo ngoài chợ cứ kêu lên thảm thiết.
Giữa cảnh đói khát tăm tối ấy, một buổi trưa người dân trong xóm thấy Tràng dắt theo một người phụ nữ. Hàng xóm thấy lạ, sang xem, bàn tán. Có người thở dài, có người thủ thỉ với nhau: “Ai đấy? Hay là người ở quê mà bà Tú mới lên? Hay là vợ ông Tràng?”… Có người lo lắng, bảo: “Ôi trời Đất này còn mang lại món nợ đời…”. Trang đi trước, phổng phao, cười tươi, mắt sáng ngời. Thị xách chiếc giỏ đi sau, vẻ rụt rè, bẽn lẽn. Lũ trẻ reo lên: “Anh Trang ơi! Vợ chồng hài”. Trang cười, còn Thị thì có vẻ khó chịu lắm!
Hai người đi đến cuối xóm, lặng lẽ rẽ xuống con đường nhỏ sâu hun hút, luồn giữa hai bờ tre cao vút. Tràng dường như quên hết cảnh đời thường, bóng tối… Một cái gì đó rất mới, rất lạ, nó ôm ấp, mơn trớn khắp da thịt Tràng. Thị chợt hỏi: “Em sắp có thai. Có ai ở nhà không?…”. Trang chợt giơ chiếc lọ nhỏ vẫn đang cầm trên tay lên khoe: “Dầu thắp đây”. Thi nói: “Sang chảnh đấy Hoàng ạ, vừa phải thôi”. Tràng nói đùa một câu “Vợ mới cũng phải để cho sáng sủa một chút, chẳng lẽ tối đã rúc vào rồi…”, liền bị thị mắng là “con khỉ gió”, đánh vào mông. trở lại. anh cau mày. Trang thích thú ngửa đầu ra sau cười.
Thị lặng lẽ theo Tràng vào ngôi nhà hoang, nằm co ro trong khu vườn ngổn ngang những búi cỏ dại. Trang xăm xăm thu dọn xoong nồi, quần áo vứt bừa bãi trên giường, dưới đất. Thị cười nhạt. Trang được mời ngồi. Cả hai đều ngượng ngùng. Thị ngồi ở mép giường, vẻ mặt chán nản, hai tay ôm chặt chiếc thúng.
Tràng mỉm cười, nhìn nàng, nghĩ, phù phiếm chẳng qua, có hai bận như vậy mà đã thành vợ thành chồng rồi.
Trang nhớ lại, hôm đó, vừa kéo xe cơm vào tỉnh, anh vừa hát câu cho đỡ mệt: “Muốn ăn mấy tiếng cơm trắng này – Ra đẩy xe bò với anh meo meo”, rồi mấy cô. cười như gầm gừ, hất vai người đàn bà ra khỏi người. Thị đồng tình: “Này, nhà mình, nói thật hay để mặc?”. Thị tấn tấn chạy đẩy xe hàng của Trang. Thị trợn mắt cười. Trang thích nó. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, đang ngồi uống nước ngoài cổng chợ tỉnh thì thị chạy tới chạy vào, nũng nịu nói: “Chết! Đồ tà! Hôm đó nó móc mồm ăn thua”. mặt. “. Thị ăn mặc rách rưới, quần áo bủn rủn như tổ đỉa, người gầy nhom… Một lúc sau, Trang mới nhớ ra. Cười toe toét, Trang mời: “Nào, ngồi ăn một bữa thịnh soạn đi”. Nghe mẹ nói ăn gì cũng được nhưng không ăn giàu, Trang vỗ túi khoe: “Giàu hi bố”. Mắt bà sáng lên, bà nói: “Ăn đi con!”. Thị ngồi xuống, thò đầu ăn liền bốn bát bánh… Ăn xong, thị đưa đũa ngang miệng thở phì phò: “Ha, ngon quá! Thấy thiếu tiền thì bỏ cha”. . Nghe Trang nói: “Anh không thể có vợ”… thế là tôi theo Trang ngay. Anh hơi bối rối nhưng rồi tặc lưỡi “Chậc, kệ!”. Tràng dẫn nàng ra chợ tỉnh, bỏ tiền mua cho nàng chiếc giỏ nhỏ đựng ít đồ lặt vặt; Hai người vào quán ăn một bữa no nê rồi lại đẩy xe bò về…
Tràng đang bâng khuâng nhớ lại, bà cụ Tứ đã về từ bao giờ. Cô ho. Cô loạng choạng bước vào, Trang vội vàng chạy ra đón. Nghe Trang nói chờ nóng cả bụng, bà nhìn vào trong nhà thì bất ngờ khi thấy một người phụ nữ đang đứng ở đầu giường con trai mình. Thị chào. Cô chạy vội vào nhà thì lại nghe tiếng cô chào: “U đến rồi!”. Cô lo lắng ngồi xuống. Thị nghĩ mình đã già, đã điếc, đã điếc… Nghe Trang nói, thị cúi đầu im lặng. Người mẹ già tội nghiệp mới hiểu ra bao điều, vừa xót xa vừa đáng thương… Bà nhìn con mà nghĩ: “Người ta gặp bước đường khốn cùng, đói khổ này thì chỉ còn biết dắt con đi thôi. Còn chị, mình mới lấy chồng”. Bà nhẹ nhàng nói với “cô dâu mới”: “Được, được, anh em có duyên mà ở với nhau, anh cũng sướng…”. Nghe mẹ nói, Trang thở phào nhẹ nhõm, lồng ngực nhẹ bẫng. Sau đó, bà cụ Tứ kể cho con dâu nghe về gia cảnh của mình và khuyên hai con nên chung sống hòa thuận. Que diêm thắp lên ngọn đèn. Giữa lúc đôi vợ chồng mới im lặng, tiếng khóc của ai đó trong xóm xen vào lúc lớn nhỏ lẫn lộn. Trang thúc đi ngủ, cô lập tức giơ tay sờ trán anh: “Mới nhanh như vậy thôi. Bẩn quá!” Tràng cười khi đã ngông, vươn cổ thổi tắt đèn.
Sáng hôm sau, mẹ chồng nàng dâu dậy sớm, dọn dẹp, sắp xếp nhà cửa, từ trong nhà ra ngoài sân, ngoài ngõ trông thật sáng sủa, sạch sẽ. Thức khuya, anh cảm thấy yêu hơn ngôi nhà của mình, anh nghĩ đến bổn phận chăm sóc vợ con. Tràng thấy Thị khác hẳn, rõ ràng là một người phụ nữ hiền lành, đứng đắn. Bà Tư tươi tỉnh hẳn lên.
Bữa cơm đón dâu mới chỉ có cháo muối. Cháo cám tuy đắng, nhưng mẹ già nói rằng ngon và ngon. Bà Tư nói đủ chuyện vui chơi, chuyện tương lai.
Đột nhiên, tiếng trống vang lên. Quạ bay lên mây đen. Bà cụ khóc. Thị kể chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta phá kho thóc Nhật chia cho dân đói. Tràng vội hỏi: “Có phải Việt Minh không?” rồi anh nhớ đến cảnh dân đói kéo nhau lên đê Sộp, trước mặt là lá cờ đỏ to tướng.
Kể lại truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân – văn mẫu 2
“Vợ nhặt” là truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được in trong tuyển tập “Con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm trọ được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở. Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân đã dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Năm 1945, cả nước xảy ra nạn đói khủng khiếp, cướp đi sinh mạng của biết bao người. Người sống bồn chồn như những bóng ma. Ở làng nọ trong xóm nọ, có chú Tràng là người xấu xí, thô kệch, ở với mẹ già. Tràng làm nghề kéo xe bò, cái nghèo bủa vây nên anh vẫn chưa có vợ. Một lần, anh chạy xe ôm lên tỉnh thì gặp một cô gái. Sau vài lần tán tỉnh, mời cô gái kia ăn bánh, cô gái lập tức theo anh về làm vợ. Việc anh Trang lấy vợ về xóm chung sống khiến ai cũng bất ngờ. Đang thời đói kém, nay sống chết vì cái miệng, lại mang thêm một người về càng thêm nặng gánh.
Mở đầu tác phẩm Vợ nhặt, tác giả đã phác họa hình ảnh ông lão Tràng “anh bước đi loạng choạng, vừa đi vừa cười, quai hàm há to…” Chỉ với vài chi tiết đó thôi, người đọc cũng đã hình dung ra được sự xấu xí của khuôn mặt của một người nông dân nghèo trong bộ đồ rách rưới. Là một chàng trai nhà nghèo, xấu xí, dân ngụ cư. Anh lặng lẽ sống với mẹ già trong căn nhà xiêu vẹo cạnh mảnh vườn đầy cỏ dại. Giữa một ngày đói khổ, tiếng hát của anh như xua tan mệt mỏi, mang lại cảm giác vui tươi. Anh cũng rất hào phóng khi tặng cô gái một món quà quê. Anh Trang chỉ vài câu “bực cười nhảm nhí” mà một người phụ nữ đã theo về làm vợ anh.
Vợ Tràng, một người không rõ tên, quê quán. Cái đói cũng biến Thị thành kẻ liều mạng. Trước bữa ăn, mắt Thi sáng lên, ngồi ăn bốn bát bánh chưng rồi sẵn sàng hùa theo người ta chỉ vì vài lời tầm thường. Thoạt đầu, Thị hiện ra như một kẻ cong cớn, đỏng đảnh, bạc tình. Sau đó, khi về làm phu nhân Tràng Thi, bà trầm tính, hiền lành, ngoan ngoãn, thu vén cho gia đình.
Bà cụ Tứ là mẹ của Trang, thoạt đầu bà có vẻ ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó lòng bà trào dâng bao cảm xúc lẫn lộn. Bà thương cô con dâu này, đến một miếng trầu hỏi cưới cũng không được, không thể đem về làm vợ.
Sáng hôm sau, mẹ chồng con dâu dậy sớm, dọn dẹp, sắp xếp nhà cửa từ trong nhà ra ngoài sân. Thức khuya, anh cảm thấy yêu nhà, nghĩ đến bổn phận chăm sóc vợ con. Trong bữa đón dâu mới có nồi cháo cám mà bà Tư luôn nói là “phô mai”. Cô con dâu cũng thấy cảnh tương tự, cùng mẹ chồng xăm trổ dọn dẹp, lau chùi lán với hy vọng nhìn thấy một tia sáng phía trước.
Tiếng trống thuế ngoài đình nổi lên, qua lời kể của vợ, ông Trang dần hiểu ra và nảy sinh khát vọng đổi đời. Hình ảnh những người dân đói khổ kéo nhau phá kho thóc của Nhật, trước mặt là lá cờ đỏ phấp phới là biểu hiện của sự thay đổi tư duy đang diễn ra trong đầu ông Tráng.
Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh hiện thực sinh động. Ở đó con người chỉ nghèo nhưng có phẩm chất tốt. Hành động của Tràng khi cõng người đàn bà kia chứng tỏ Tràng là người độ lượng, nhân hậu. Mẹ Trang vừa mừng vừa buồn khi chấp nhận con dâu, luôn hy vọng ở cô một tương lai tốt đẹp hơn.
Có thể nói, bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo cùng với sự phân tích tâm lý nhân vật sâu sắc, tác giả đã cho người đọc thấy được phần nào tình cảnh của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 đã đẩy con người đến bước đường cùng nhưng trong họ luôn có hy vọng cho một ngày mai tốt đẹp hơn.
Bài giảng Vợ nhặt – Cô Vũ Phương Thảo (giáo viên )
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 luyện thi THPT Quốc gia:
vo-nhat.jsp
Các bộ đề lớp 12 khác