Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất – Ngữ văn lớp 11
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
Bài giảng: Vội vàng – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên )
Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên trong trang thơ của Huy Cận, Hàn Mặc Tử luôn phảng phất một nét buồn, đượm buồn thì ngược lại trong hồn thơ Xuân Diệu, thiên nhiên lại có một nét riêng góp phần tạo nên vẻ đẹp riêng. cái nhìn mới về vẻ đẹp của thiên nhiên trong thơ ca. Tiêu biểu cho điều đó là bài thơ “Vội vàng” sáng tác năm 1938 và được in trong tập “Thơ” với một bức tranh thiên nhiên có sức sống mãnh liệt, vừa tươi mát nhưng cũng tràn đầy sức sống. vị chia phôi và bị tàn phá dữ dội bởi thời gian. Vẻ đẹp của thiên nhiên đã góp phần thể hiện quan niệm sống, tư tưởng mới mẻ, tiến bộ của nhà thơ.
Vẻ đẹp của thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho các thi nhân. Với tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm luôn yêu tha thiết, say đắm cái đẹp, thiên nhiên mang lại nó vừa là nguồn cảm hứng, vừa là phương tiện để nhà thơ thể hiện tài năng, tình cảm nghệ thuật của mình. Tuy thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” không phải là chủ đề chính nhưng nhà thơ đã cho ta thưởng thức vẻ đẹp tuyệt mỹ trong thế giới được Xuân Diệu miêu tả bằng tài năng thơ ca của mình.
Thiên nhiên hiện ra với hai vẻ đẹp cơ bản. Trước hết đó là vẻ đẹp của một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống có âm thanh và màu sắc:
“Đây là mật của một con ong và mật của một tháng
…Tôi không đợi nắng hè về để đón xuân”
Điệp ngữ “này nọ”, “của” làm cho vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân hiện lên cụ thể, rõ nét gợi cho nhà thơ cảm giác vui sướng, hạnh phúc khi đón nhận sự trù phú mà thiên nhiên ban tặng. cho cuộc sống. Đó là hình ảnh bướm ong tháng mật, là quãng thời gian hạnh phúc nhất, viên mãn nhất, ngọt ngào nhất của đời người; đó là bông hoa của cánh đồng xanh_xanh tươi đẹp, tràn đầy sức sống; đó là cành lá rung rinh trong gió xuân; đó là bản tình ca rộn ràng của tổ anh; là ánh ban mai “nháy mi”. Bức tranh thiên nhiên ấy có đủ âm thanh, hương vị, màu sắc và cả men say của tình yêu. Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên vào thời điểm tập trung nhất của vẻ đẹp bởi đây là bức tranh của mùa xuân – khởi đầu của một năm, mở đầu cho một hành trình mới nên luôn tràn đầy sức trẻ và nhiệt huyết. sức sống, không phải là cái nắng chói chang của mùa hè hay lá vàng rơi của mùa thu hay cái lạnh giá của mùa đông. Thiên nhiên của Xuân Diệu không phải là sông dài mênh mông trong “Tràng Giang” của Huy Cận hay một chuyện tình riêng của thôn Vĩ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử cũng không phải là đặc trưng của một vùng quê nào. Đó là cái đẹp hiện hữu ở mọi nơi, cái đẹp đơn sơ mộc mạc nhưng không phải ai cũng phát hiện được và có tâm hồn biết trân trọng, đánh giá cao như nhà thơ bởi không phải ai cũng có được. là con mắt và trái tim của nhà thơ. Với Xuân Diệu, vẻ đẹp ấy không cần tìm đâu xa, phải trốn vào cổ tích như Thế Lữ, mà đó là “bữa tiệc trần gian” mà tạo hóa ban tặng. Khi miêu tả thiên nhiên thơ Xuân Diệu đã có sự cách tân, đổi mới, ông không đi theo lối mòn của văn học trung đại là ước lệ hay quan điểm tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp con người. người giản lược trong nghệ thuật sử dụng, lấy con người làm trung tâm của vũ trụ, là điểm hội tụ của cái đẹp và là chuẩn mực cho tự nhiên. Điều đó được thể hiện qua vẻ đẹp của “ánh mi”, và chi tiết so sánh táo bạo, độc đáo “Tháng giêng ngon như làn môi kề môi”. Môi kề sát là giây phút hạnh phúc thăng hoa của tình yêu. Tháng giêng là đầu năm, là vô hình nhưng so với môi kề môi, là vật hữu hình mà có vị. , có hương vị “thơm ngon” hấp dẫn đang mời gọi thi nhân thưởng thức. Chính vì tất cả vẻ đẹp ấy mà nhà thơ đã táo bạo muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ hương thơm của đất trời vào mùa xuân, để rồi nhà thơ muốn ôm, siết, lấy. say sưa và tan biến. cùng đất trời thưởng ngoạn trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Xuân Diệu phải là một nhà thơ yêu thiên nhiên sâu sắc thì mới có thể tinh tế phát hiện và cảm nhận bằng tất cả các giác quan của mình.
Tuy nhiên vạn vật trong vũ trụ từ những thứ nhỏ bé nhất như cây cỏ đến con người đều không thể trường tồn mãi mãi, không thể thoát khỏi quy luật tự nhiên và sự tàn phá khốc liệt của thời gian. Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân như một cuộc dạo chơi trong đêm và là phương tiện thể hiện quan niệm sống sâu sắc của ông. Bởi tác giả nhận ra; “Xuân tới cũng là xuân qua/ Xuân còn trẻ nghĩa là xuân sẽ già”. Thời gian trong cái nhìn của ông không phải là một vòng tuần hoàn như trong thơ ca trung đại mà là thời gian tuyến tính đi một lần không bao giờ trở lại. Vì vậy, anh ta hối hận, đau đớn vì sự trôi chảy của nó: “Tôi hạnh phúc. Mà vội nửa/ Ta không đợi nắng hạ chẳng bao giờ xuân về” hay “Thơm quá ta tiếc cả đời”. Trong tâm trạng ấy, nhà thơ nhìn vạn vật với sự tàn phai, chia ly, và tạm biệt.
“Hương tháng năm đầy phôi chia
…Không bao giờ, ôi! Không bao giờ lặp lại.”
Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để làm cho thiên nhiên trước thời khắc chia tay từ mùa xuân sang mùa hạ cũng có trạng thái cảm xúc, cũng có hành động như con người. Tháng năm có mùi phôi pha, tiếng kêu rì rào của triền núi, gió xinh hờn dỗi lá sắp đi, tiếng chim ríu rít đón xuân về, bỗng ngừng hót. Tất cả những điều này “Có phải nó sợ sự diệt vong sắp xảy ra?” cũng như nhà thơ sợ giây phút thanh xuân sẽ trôi qua vô ích mà thốt lên lời than thở, những câu buồn sâu lắng “Không bao giờ nữa ơi! Không bao giờ nữa”. Xuân Diệu quả là có một cách nhìn khác, ông không cần đợi nắng hè để không bao giờ quên mùa xuân, mà thấy ngay từ khi mùa xuân mới đến, “trong buổi gặp gỡ đã có hạt chia ly”.
Xuân Diệu được nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” đến với thơ ông chất “tài hoa, tinh tế mà sang trọng” trong “Lặng lẽ lãng mạn, cảnh vật”. Sự vật tràn đầy tình xuân thể hiện một tâm hồn thi sĩ vô cùng yêu cái đẹp, khao khát cuộc sống trần gian và có quan niệm tích cực về thời gian và tuổi trẻ.
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
voi-vang.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác