Suy nghĩ của em về tình cảm yêu nước thương dân trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ (dàn ý – 2 mẫu)
Đề bài: Suy nghĩ của em về lòng yêu nước, thương dân được thể hiện trong các văn bản Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn).
Dàn ý Suy nghĩ của em về lòng yêu nước thương dân trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ (dàn ý – 2 văn mẫu)
1. Mở bài
– Khái quát cảm hứng yêu nước trong tác phẩm Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ.
2. Cơ thể
một. Dời đô – Hoàn cảnh sáng tác: + Khi Lý Thái Tổ lên ngôi + Mong muốn đất nước có kinh đô mới để đất nước phát triển.
– Lý do dời đô:+ Chỉ ra những hạn chế khi đóng đô ở Hoa Lư: địa hình hiểm trở, triều đại không bền…+ Ưu điểm của việc dời đô: Đại La là trung tâm của đất trời, địa hình rộng nhưng bằng…..+ Mong đất nước phát triển mạnh mẽ, đau đáu nghĩ đến một vùng đất thiêng để phát triển đất nước.–> Tình cảm của một vị vua luôn hướng về vận mệnh của mình, về sự tồn vong của đất nước. Xã Giác Giang Sơn.
b. Nấc tướng:
– Lên án sự ngang ngược, xâm lược tàn bạo của giặc:+ Chửi triều đình+ Ăn hiếp chúa+ Trộm cắp vàng bạc…
– Thể hiện lòng căm thù, khinh bỉ kẻ thù bằng sự lo lắng, đau đớn trước họa nước xâm lược:+ Đến bữa,+ Ăn quên cả+ Ruột đau như cắt….+ Muốn rụng da xẻ thịt…– Lời nói có một sức lay động mạnh mẽ, khơi dậy lòng yêu nước và lòng căm thù giặc của người lính.–> Hình ảnh người anh hùng yêu nước sẵn sàng xả thân vì nước được khắc họa rõ nét.
3. Kết luận
ý thức chung
Suy nghĩ của em về lòng yêu nước thương dân trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ – văn mẫu 1
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử văn học dân tộc. Tình cảm đó được thể hiện mạnh mẽ trong những lời tâm huyết của những người lãnh đạo đất nước từ xa xưa. Có thể kể đến những văn bản tiêu biểu như “Hịch tướng sĩ” của Lý Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
Triều đình ra đời khi Lý Thái Tổ lên ngôi. Nhà vua muốn đất nước có một nguồn vốn lớn và đàng hoàng để phát triển đất nước. Chính vì vậy, ông đã phê phán và chỉ rõ việc định đô ở Hoa Lư là không còn phù hợp: “Cứ đóng đô ở đây, làm cho vương triều không trường tồn, vận mệnh ngắn ngủi, trăm họ phải mất, vạn vật đều tiêu tan”. không thích ứng.” Hoa Lư là vùng có địa hình hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh, phù hợp với chiến lược phòng thủ. Nhưng đến đời Lý, đất nước đặt ra nhu cầu phát triển nên phải dời kinh đô đi nơi khác. Không chỉ tranh luận, Lý Công Uẩn còn bày tỏ cả nỗi lòng: “Ta rất lấy làm tiếc về điều đó”. Tình yêu của một vị vua luôn hướng về thiên mệnh, và sự tồn tại của Giang Sơn Xã Tắc khiến người đọc cảm động.
Vì đau lòng khi nghĩ đến một vùng đất linh thiêng có thể phò trợ cho sự phát triển của đất nước, nhà vua đã xem đất xây thành Đại La. Là nơi có vị trí thuận lợi về nhiều mặt, về địa lý tác giả phân tích rõ: Nơi trung tâm của trời đất; Thế rồng cuộn hổ ngồi”, bốn phương rộng mở, thế “tựa sông, dựa núi” vững chắc, “địa thế rộng rãi, bằng phẳng; đất cao thoáng đãng”. Trên địa thế đó, cư dân sẽ tránh được lũ lụt và “vạn vật phú quý”. Thuận lợi về địa lý như vậy sẽ dẫn đến thuận lợi trong trao đổi mua bán: “Là nơi tụ hội quan trọng của bốn phương đất nước”. Thủ đô mới này sẽ thực hiện vai trò là đầu mối trung tâm về kinh tế, chính trị và văn hóa của đất nước.
Trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tinh thần yêu nước được thể hiện trực tiếp trên nhiều phương diện.
Tác giả miêu tả sự ngang ngược và tội ác của giặc: “Thấy sứ giặc đi ngang qua đường, uốn lưỡi cú diều mắng triều đình, lấy thân chó dê ức hiếp tể tướng. ngọc bích, vì thỏa mãn lòng tham vô tận, giả làm Vân Nam vương thu thập vàng bạc, nhằm vét cạn kho hạn, chẳng khác nào cho hổ đói ăn thịt, để sau này không xảy ra tai họa!” Qua những câu văn đó bộ mặt của kẻ thù đã bị vạch trần và tác giả cũng bày tỏ thái độ căm ghét, khinh bỉ tột độ đối với chúng. Điều đó được thể hiện rõ qua việc tác giả sử dụng các phép so sánh, ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê, chó, hổ đói,… ; Các hình ảnh được đặt trong thế tương phản thể hiện sự căm ghét, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – mắng triều đình, mang thân dê chó – bắt nạt cha.
Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc, có thể coi đây là đoạn hay nhất của bài thơ: “Ta thường quên cơm, nửa đêm vỗ gối”. . ; ruột đau như cắt , nước mắt giàn giụa , Chỉ hận chưa xẻ thịt , lột da , nuốt gan uống máu quân thù . Dù cho trăm xác này phơi cỏ , và những ngàn xác bọc trong da ngựa, ta hài lòng.” Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả một cách đau đớn: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt trào ra. Nỗi căm phẫn dâng lên tột độ khi tác giả bộc lộ thái độ đối với kẻ thù: chỉ căm giận chưa tàn sát, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Tướng quân đã xác định cho mình một tinh thần xả thân vì nước: Dù trăm thân phơi cỏ, nghìn xác bọc da ngựa, ta cũng bằng lòng. Qua đoạn văn này, hình ảnh người anh hùng yêu nước sẵn sàng xả thân vì nước được khắc họa rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, thấm nhuần trong họ lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hy sinh vì nước vì làng. .
Không chỉ vậy, tấm lòng yêu nước của vị tướng đáng kính còn được thể hiện sâu sắc trong tấm lòng của một vị tướng đối với quân sĩ: “Đã lâu các anh cùng tôi canh giữ binh quyền, (…) khi chiến trường khốc liệt, chúng sống chết có nhau, ở nhà cùng cười”. Thật là một tấm lòng người cha cảm động!
Có thể nói, tinh thần yêu nước của các tác giả được thể hiện trong hai văn bản “Hịch tướng sĩ” của Lý Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn rất đa dạng, nhiều vẻ khác nhau, nhưng đều là tương tự nhau. Nói chung, họ muốn đất nước được hòa bình và thịnh vượng. Tấm lòng ấy không chỉ được thể hiện một cách cảm động qua hai văn bản mà còn được hai nhà lãnh đạo tài ba chứng minh bằng những đóng góp thiết thực vào lịch sử phát triển hào hùng của dân tộc.
Suy nghĩ của em về lòng yêu nước thương dân trong Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ – văn mẫu 2
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn cảm hứng lớn và thường trực trong văn học dân tộc. Vì vậy, không khó để tìm thấy những tình cảm yêu nước được thể hiện trong các tác phẩm văn học. Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn) và Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) là hai trong số những áng văn thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc như thế!
Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh và có tầm nhìn xa trông rộng, chính vì thế mà ông thấy được việc dời đô là cần thiết nên bài Chiếu dời đô ra đời. Lòng yêu nước thương dân thể hiện ở nhiều mặt.
Vì lo cho đất nước, Lý Công Uẩn chỉ rõ việc tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư là không phù hợp, ông lo lắng và “buồn lòng”. Ông cũng bày tỏ ý muốn dời đô về Đại La vì đây là nơi “trung tâm của trời đất, mưu việc lớn, mưu tính muôn đời cho con cháu”, “trên tuân mệnh trời, dưới thuận theo lòng dân”. . Có thể nói, tư tưởng yêu nước ở đây đã gắn liền với khát vọng bền vững của vương triều. Ông cũng bày tỏ mong muốn xây dựng một nơi yên vui, hạnh phúc cho muôn dân, theo Lý Công Uẩn nếu dời đô về đó, một nơi “nơi trung tâm của trời đất” thì ông sẽ như “con rồng”. cuộn tròn với một con hổ”. địa hình rộng và bằng phẳng; Đất cao, thoáng mát”, cư dân sẽ tránh được lũ lụt, mà “vạn vật sinh sôi, tươi tốt”. Tâm nguyện lớn nhất của Lý Công Uẩn là núi sông quy về một mối, nhân dân an cư lạc nghiệp. vui vẻ, có nơi an cư lạc nghiệp, ông khẳng định chắc nịch “đây đúng là nơi hội tụ quan trọng của bốn phương đất nước, cũng là kinh đô đầu tiên của đế vương muôn đời” bày tỏ quyết tâm dời đô, là cũng quyết làm tròn trách nhiệm của một vị vua đối với đất nước để vương triều được thịnh trị lâu dài.
Có thể thấy, việc dời đô đã khẳng định ý chí độc lập, tự chủ của vua Lý Thái Tổ, đồng thời cũng thể hiện sự phát triển lớn mạnh của quốc gia Đại Việt, biết dựa vào sức mình mà đương đầu với mọi thử thách. thức tỉnh.
Theo Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của người tướng sĩ.
Lòng yêu nước thể hiện trước hết ở lòng căm thù giặc đến cùng. Ông thẳng thắn vạch trần tội ác và sự ngang ngược của giặc: vênh váo, mắng nhiếc triều đình, ức hiếp tể tướng, đòi ngọc, lụa, thu vàng bạc… Tác giả căm phẫn, khinh bỉ bộ mặt lưu manh của giặc.
Trong bài Hịch, Trần Quốc Tuấn cũng bày tỏ nỗi lòng của mình đối với số phận non sông đang bị giặc giày xéo một cách chân thành, tha thiết: “Ta thường quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt lưng tròng, chỉ hận chưa lột được da thịt, nuốt gan uống máu quân thù”. Trần Quốc Tuấn yêu nước đến mức chấp nhận hy sinh tất cả: Dù trăm xác này phơi cỏ khô, nghìn xác bọc trong da ngựa, tôi cũng vui lòng, trước nỗi đau trước cảnh người nước, ông có một tinh thần hi sinh vì dân cao cả, vì lợi ích của sông núi, chấp nhận hy sinh vì nước, lòng căm thù giặc tột độ ấy chỉ có ở một người yêu nước tha thiết.
Với những người lính, cũng xuất thân từ nhân dân, Người bày tỏ tấm lòng: “Các anh đã cùng tôi canh giữ binh quyền đã lâu,… khi chiến trường ác liệt, sống chết có nhau, có khi anh em. sẽ ở nhà nhàn hạ, cùng vui cười”, nhưng Người cũng thẳng thắn phê phán những sai lầm trong hàng ngũ của mình, đó là thói hưởng thụ, thái độ thờ ơ với vận mệnh nước nhà, ham mê những thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, rượu ngon. .. Từ đó, Trần Quốc Tuấn kêu gọi quân sĩ phải phân biệt phải trái, tận tụy với dân vì nước. Đất nước không còn bóng quân thù, cũng mong nhân dân được sống yên vui.
Văn bản là sự thể hiện sâu sắc nhất tấm lòng yêu nước của một vị tể tướng mà cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhìn chung, cả hai văn bản đều thể hiện tình cảm yêu nước, thương dân sâu sắc nhất của mỗi tác giả. Điều này khơi dậy trong lòng mỗi người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc để từ đó nhiều hành động ý nghĩa sẽ trở thành hiện thực, để quê hương trở thành hiện thực. Chúng ta, sông núi, thân thể chúng ta ngày càng phong phú, tươi đẹp và yên bình.
Xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh, phân tích, lập kế hoạch tác phẩm lớp 8:
Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 8 theo từng phần:
Giới thiệu về kênh Youtube
Các bài văn lớp 8 khác